AEC - mô hình liên kết kinh tế khu vực
Ngày 22/11/2015, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Thủ đô của Malaysia đã ra Tuyên bố Kuala Lumpur 2015, chính thức thành lập AEC. Sự ra đời của AEC được coi là một bước ngoặt, đánh dấu sự hội nhập khu vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á.
Ngày 22/11/2015, lãnh đạo các nước tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN đã ra Tuyên bố Kuala Lumpur 2015, chính thức thành lập AEC
AEC là thị trường có dân số 650 triệu người, với tổng sản lượng hàng năm khoảng 2.000 tỷ USD. Nhưng, Cộng đồng này không quá chú trọng yếu tố thị trường chung, mà chú ý đến việc hỗ trợ nhau để trở thành khu vực phát triển đồng đều. Các nền kinh tế trong ASEAN cũng tương đối giống nhau về sản phẩm và dịch vụ, nên khả năng bổ trợ cho nhau thấp.
Để hiểu sâu hơn về những tác động của AEC, cần nhìn vào thực chất của tổ chức này. AEC không chỉ đơn giản thực hiện tự do hóa thương mại, dịch vụ và đầu tư như các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới hiện nay, mà hình thành AEC là nhằm biến khu vực Đông Nam Á trở thành mắt xích tự do hóa quan trọng trong mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu; thực hiện liên kết, kết nối giữa các quốc gia để đưa khu vực phát triển đồng đều hơn. AEC không có xu hướng khép kín các hoạt động trong nội bộ khu vực, mà thực hiện cơ chế kinh tế mở. Tham gia AEC, nếu chỉ nghĩ đến các quốc gia thành viên là không đúng, mà phải nghĩ đến các đối tác EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc… Cách chơi của ASEAN là liên kết giữa các quốc gia, dựa trên nguyên tắc tham vấn và đồng thuận. Ban Thư ký ASEAN giữ vai trò điều phối hoạt động, rõ hơn là đại diện phát ngôn cho khu vực này.
Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN, có bổ sung thêm hai nội dung mới là tự do di chuyển lao động và vốn.
Thành tựu đáng kể nhất trong xây dựng AEC tới nay là ASEAN đã cơ bản giảm được thuế quan cho các mặt hàng trong danh sách giảm thuế về 0%-5% từ năm 2010 đối với 6 nước thành viên ban đầu và vào năm 2015 với 4 nước thành viên mới, hình thành nên một thị trường mở không còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa.
Tác động của AEC đến Việt Nam
AEC bao gồm 4 mục tiêu và cũng là 4 yếu tố cấu thành:
(i) Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua: Tự do lưu chuyển hàng hóa; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu chuyển đầu tư; Tự do lưu chuyển vốn; Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề.
(ii) Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở vật chất hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử.
(iii) Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.
(iv) Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu.
Nhìn vào các yếu tố trên có thể thấy, chỉ có mục tiêu đầu tiên là rõ ràng và mang tính hành động, thực tế. Còn các mục tiêu khác chỉ mang tính định hướng. Vì thế, AEC sẽ tác động chủ yếu trên ba lĩnh vực cơ bản được nêu ra trong mục tiêu đầu tiên, đó là: thương mại, đầu tư và di chuyển lao động nội khối.
Đối với thương mại
Tính toán của Bộ Công Thương cho thấy, hiện thương mại nội khối AEC chỉ chiếm khoảng 24% tổng kim ngạch của khối nói chung, kém xa mức 60% của Liên minh châu Âu (EU) và 40% của Cộng đồng Kinh tế Bắc Mỹ. Đối với Việt Nam, xuất - nhập khẩu với ASEAN chỉ chiếm 10% đối với tổng kim ngạch xuất khẩu và 20% nhập khẩu. Thêm vào đó, nhiều nước trong khối cũng là thành viên của WTO, nên việc mở rộng thương mại nhờ AEC cũng không tạo ra nhiều khác biệt, hay đột phá lớn trong việc khuyến khích thương mại nội khối so với bối cảnh có WTO. Vì thế, trong ngắn hạn, tác động từ AEC đối với thương mại của Việt Nam là không đáng kể.
Một thực tế đáng lo ngại là, Việt Nam đang có dấu hiệu tụt hậu. Năm 1990, khoảng cách Việt Nam so với trung bình thế giới khoảng 4.000 USD, thì sau hơn 20 năm, khi GDP bình quân của Việt Nam đạt 2.000 USD, thì GDP bình quân thế giới đã vượt 10.000 USD, khoảng cách phát triển đã lên gấp 2 lần (Nguyễn Quang Thái, 2015). Đó là chưa kể đến các khía cạnh tụt hậu về cơ sở vật chất hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, thể chế… Hiện nay, Việt Nam đang có trình độ kinh tế thấp hơn một số nước là đối tác thương mại quan trọng trong khối, như: Singapore, Malaysia, Indonesia…
Đã vậy, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện cũng rất thấp. Theo Tổng cục Thống kê, xét về quy mô vốn, có tới 73,86% doanh nghiệp ngoài nhà nước là doanh nghiệp nhỏ, có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng. Do quy mô nhỏ, nên hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể đầu tư nhiều cho đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường nội địa, ít quan tâm đến thị trường nước ngoài, do thiếu năng lực tài chính, kỹ thuật, thông tin thị trường, mạng lưới sản xuất… (Mahani Z., Loh G. Nor I. 2012). Còn doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thực hiện các công đoạn sơ chế, gia công thuộc vị trí thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hơn nữa, đa số các doanh nghiệp lớn của Việt Nam, kể cả doanh nghiệp tư nhân chưa tạo dựng được thương hiệu trên thị trường thế giới. Phần lớn trong số 50 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam là các tập đoàn kinh tế nhà nước và một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động trong những ngành có độ mở cửa thấp, hoặc được bảo hộ, trong khi các doanh nghiệp có vốn nước ngoài quy mô lớn chủ yếu là các doanh nghiệp gia công, lắp ráp. Với năng lực cạnh tranh của quốc gia và khu vực doanh nghiệp còn thấp, thiếu những doanh nghiệp trong nước có thương hiệu mạnh và có khả năng cạnh tranh, rất có thể AEC lại là xúc tác biến Việt Nam thành nơi tiêu thụ hàng hóa công nghiệp của nước khác, trong khi lợi ích thu về từ xuất khẩu sẽ bị thiệt hại do thiếu sức cạnh tranh.
Đối với đầu tư
Lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng cho thấy, đầu tư nội khối chiếm tỷ trọng rất thấp trong dòng đầu tư vốn FDI có nguồn gốc từ ASEAN. Tính đến hết năm 2014, dòng FDI từ ASEAN vào Việt Nam chiếm 21,4% tổng FDI vào Việt Nam với mức tổng lên tới 52,34 tỷ USD. Đầu tư của Singapore chủ yếu là vào lĩnh vực khách sạn, du lịch, khu vui chơi sinh thái, Khu Công nghiệp Việt Nam - Singapore, trong khi FDI từ Malaysia thì chủ yếu tập trung các liên doanh với các công ty sở hữu nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, bất động sản, giáo dục và dầu khí. Thái Lan thì lại chú trọng lĩnh vực bán lẻ và một phần đi vào sản xuất đồ nhựa.
Như vậy, dòng vốn đầu tư FDI từ ASEAN vào Việt Nam không nhằm vào các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, mà chủ yếu là lĩnh vực bất động sản, dịch vụ.
Ngược lại, dòng vốn FDI của Việt Nam năm 2014 vào khối chỉ ở mức 1,5 tỷ USD so với mức hơn 7,6 tỷ USD ra ngoài khối. Nói cách khác, sự đột phá tạo ra sự mở rộng dòng vốn FDI trong nội bộ ASEAN nhờ thành lập AEC sẽ là không lớn. Đối với Việt Nam nói riêng, việc hưởng lợi từ đầu tư FDI vào khối là không đáng kể, trong khi dòng FDI từ trong nội khối vào Việt Nam có thể tăng lên đáng kể.
Đối với di chuyển lao động
Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Việt Nam đang xuất khẩu nhiều lao động sang các nước ASEAN, đặc biệt là Malaysia với hàng nghìn chỉ tiêu mỗi năm, làm nhiều loại ngành nghề khác nhau. Nhiều ngân hàng, doanh nghiệp Việt Nam đã mở chi nhánh, hoạt động khá hiệu quả tại Lào, Campuchia cũng cho thấy khả năng hội nhập nhanh chóng của lao động Việt Nam trong ASEAN gắn với dòng di chuyển thương mại, vốn đầu tư, dịch vụ.
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, nên tỷ lệ lao động Việt Nam tham gia thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%; trong khi có tới 47% lực lượng lao động vẫn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, với năng suất, thu nhập thấp. Khoảng 3/5 số lao động Việt Nam đang làm các công việc dễ bị tổn thương. Nhìn chung, năng suất và mức tiền lương của Việt Nam khá thấp so với các nền kinh tế trong ASEAN, như: Malaysia, Singapore và Thái Lan.
Trong khối ASEAN, Singapore, Malaysia và Thái Lan là những nước nhận nhiều lao động nước ngoài nhất (nhận thuần), trong khi các nước, như: Việt Nam, Phillippines, Campuchia và Lào là những nước xuất khẩu thuần lao động. Singapore, Malaysia và Thái Lan được cho là đang bước vào giai đoạn phát triển cao hơn, nhu cầu về lao động kỹ năng cao đang tăng trong khi nguồn cung lại chưa được đáp ứng. Đây là một yếu tố tốt đối với lao động ở các nước phát triển kém hơn, có thu nhập kém hơn. Tuy nhiên, việc thiếu đào tạo kỹ năng; thủ tục visa trong khối ASEAN chưa thống nhất; các khía cạnh chính trị, tôn giáo, văn hóa... vẫn sẽ là trở ngại cho sự gia tăng di cư lao động trên thực tế.
Làm gì để tận dụng những cơ hội từ AEC?
Các lợi thế so sánh của Việt Nam cũng tương đồng với lợi thế so sánh của những quốc gia khác trong khu vực, nên không dễ khai thác ưu đãi dành cho thành viên AEC. Vì thế, để thu được lợi ích từ AEC, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau:
Về phía Nhà nước:
- Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới thể chế, xây dựng hành lang pháp lý nhất quán, thông thoáng, minh bạch, công khai, dễ dự báo, tạo môi trường thuận lợi hơn cho kinh doanh và đầu tư; thiết lập lộ trình phát triển, quy hoạch chiến lược cho các mặt hàng, ngành mũi nhọn của Việt Nam để tận dụng được hết những lợi thế về trí địa lý, nguồn nhân lực... đem lại.
- Cần có sách lược phát triển, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và phòng chống rủi ro về tài chính (nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa) trong việc phát triển thị trường nội địa và khu vực ASEAN.
- Từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng trên cơ sở đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, nâng dần tỷ trọng đóng góp của công nghệ, vốn con người vào tăng trưởng. Hoàn thiện thể chế về công tác quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng và tăng cường hiệu quả của công tác quy hoạch. Rà soát các sản phẩm chủ yếu, nghiên cứu những tiềm năng, lợi thế của đất nước để có chiến lược phát triển ngành nghề phù hợp. Tập trung nguồn lực cho những ngành công nghiệp gần với thế mạnh của Việt Nam, như: các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản, dệt may và da giày...
- Tăng cường phổ biến thông tin cho doanh nghiệp về hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là những thông tin về quy tắc nguồn gốc xuất xứ, tiêu chuẩn hàng hoá... Các đại diện thương mại, kinh tế, đầu tư của Việt Nam tại các nước ASEAN cần đẩy mạnh hoạt động, tăng cường cung cấp thông tin về thị hiếu thị trường, mạng lưới sản xuất, các cơ hội đẩy mạnh đầu tư, trao đổi thương mại với các nước.
- Đổi mới và hoàn thiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nhằm khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp trong nước, trong đó chú trọng các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp dễ bị tổn thương trong quá trình hội nhập. Nghiên cứu, ban hành Luật Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, có giải pháp để giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những điểm yếu chung về vốn, thông tin, kỹ thuật, hỗ trợ khởi nghiệp và hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả.
- Khuyến khích nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, tăng cường năng lực khoa học công nghệ nội sinh. Tiếp tục cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động.
- Thực hiện các chính sách bảo đảm an sinh xã hội phù hợp để hỗ trợ những nhóm dễ bị tổn thương trong quá trình hội nhập kinh tế.
Đối với doanh nghiệp:
Tại Chương trình Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời ngày 03/01/2016, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã bày tỏ nỗi lo lắng khi dẫn ra con số đáng giật mình về sự hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp về AEC. Theo đó, Việt Nam lại là một trong những nước nhận thức về ASEAN còn hạn chế, khi có tới 60%-80% doanh nghiệp chưa hiểu biết nhiều và chỉ 10% doanh nghiệp Việt Nam đang tranh thủ được những cam kết trong cộng đồng AEC.
Phó Thủ tướng cũng lo ngại, khi AEC được hình thành, thì nhân tố thụ hưởng chính là doanh nghiệp, nhưng nếu nhận thức của doanh nghiệp còn hạn chế như vậy thì những cam kết của ta, với trên 90% cam kết và các chính sách đưa ra, sẽ không thể tận dụng được. Cũng theo Phó Thủ tướng, hiện các nước ASEAN trong nội khối rất quan tâm để tranh thủ điều kiện thuận lợi từ AEC mang lại. Song với doanh nghiệp Việt Nam lại không tập trung đến thị trường này, mà chỉ quan tâm các thị trường phía xa, nên chưa tận dụng được những điều này. Vì thế, trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần:
- Nâng cao hiểu biết về AEC, nghiên cứu cơ sở pháp lý và cơ chế giải quyết tranh chấp, thực thi nhằm đảm bảo hợp đồng kinh doanh và quyền lợi của doanh nghiệp.
- Chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp, uy tín thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã và đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng với chi phí thấp, kịp thời, tin cậy.
- Chủ động tăng cường năng lực nghiên cứu thị trường và hướng nhiều hơn đến khu vực ASEAN, lựa chọn chiến lược kinh doanh phù hợp, nắm bắt nhanh các cơ hội để đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Tư tưởng quan trọng của việc thành lập AEC không phải là gia tăng sự cạnh tranh giữa các quốc gia thành viên, mà là gia tăng sự phối hợp để cùng phát triển. Cộng đồng doanh nghiệp cần tăng cường phối hợp để thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị sản xuất, phát huy lợi thế của một khu vực sản xuất thống nhất. Nâng cao nhận thức, hiểu biết về hội nhập và coi các chương trình hội nhập kinh tế là một sự cam kết kinh tế, mà trong đó có cả hợp tác và cạnh tranh.
- Xem ASEAN như sân nhà, cũng như cần nhận thức rõ nếu không cạnh tranh và phát triển được trong ASEAN, thì hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới sẽ thiếu hiệu quả. Do đó, doanh nghiệp cần có những tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn thị trường ASEAN, cũng như các chính sách hỗ trợ mà AEC mang lại. Từ đó, vạch ra chiến lược kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư mạnh mẽ hơn nữa sang thị trường giàu tiềm năng này.
- Cải thiện và phát huy giá trị cốt lõi của doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh. Tạo sự khác biệt về giá trị cốt lõi sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp có lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh, mang lại lợi nhuận cho mình. Muốn nhận biết được sự khác biệt đó, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình các công cụ phân tích cạnh tranh như SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức), đối thủ và thị trường./.
Tài liệu tham khảo
1. Tổng cục Thống kê (2015). Niêm giám Thống kê 2014, Nxb Thống kê
2. Trung tâm WTO – VCCI Việt Nam (2014). Tóm lược Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
3. Thông tấn xã Việt Nam (2015). Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh: Cơ hội AEC rất lớn, nếu biết tận dụng, truy cập từ http://www.vietnamplus.vn/pho-thu-tuong-pham-binh-minh-co-hoi-aec-rat-lon-neu-biet-tan-dung/364252.vnp
4. Nguyễn Quang Thái (2015). Những khoảng cách lớn cần kiên trì san lấp, truy cập từ http://baochinhphu.vn/Chinh-sach-va-cuoc-song/Nhung-khoang-cach-lon-can-kien-tri-san-lap/244440.vgp
5. Liên Trang (2015). Cánh cửa AEC đã chính thức mở ra, truy cập từ http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/197-4956-canh-cua-aec-da-chinh-thuc-mo-ra.html
6. Mahani Z, Loh G, Nor I (2012). Achieving the ASEAN Economic Community 2015: Challenges for Member Countries and Businesses, ISEAS Publishing 2012, Singapore
7. ASEAN Secretariat (2014). Thinking Globally, Prospering Regionally – ASEAN Economic Community 2015, access to http://www.asean.org/images/resources/2014/May/AECKeyMessagesBooklet_FINAL30Apr2014.pdf
Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3, tháng 2/2016