Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Có thể nói năm 2017 tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng dưới sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự nỗ lực phấn đấu cao của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước; cùng với quyết tâm của toàn ngành, ngành Tài chính đã hoàn thành xuất sắc và toàn diện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2017, góp phần quan trọng hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển KT-XH. Những dấu ấn đáng chú ý đó là:
Thứ nhất, điều hành chính sách tài khóa chủ động, chặt chẽ, tiết kiệm; siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính góp phần đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
Trong công tác chỉ đạo thu NSNN, Bộ Tài chính đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và chính quyền địa phương, chú trọng khai thác nguồn thu; đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; quyết liệt xử lý nợ đọng thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế; kiểm soát chặt chẽ mã số, xuất xứ hàng hóa, giá trị tính thuế hải quan.
Trong công tác quản lý chi NSNN, Bộ Tài chính đã rà soát, trình cấp có thẩm quyền bổ sung, ban hành các chính sách, chế độ chi; tăng cường kiểm soát chi NSNN chặt chẽ, đúng chế độ; đẩy mạnh công tác thanh tra tài chính - ngân sách,...; qua đó từng bước tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN.
Với những nỗ lực nêu trên, tổng thu cân đối NSNN ước đạt 1.283,2 nghìn tỷ đồng, vượt 5,9% so dự toán Quốc hội quyết định; đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhiệm vụ chi theo dự toán, xử lý nhiệm vụ cấp thiết. Bội chi NSNN năm 2017 giảm 4.000 tỷ đồng so với dự toán, cân đối NSTW và các địa phương cơ bản được đảm bảo.
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh:
Công tác xây dựng thể chế năm 2017 đã được Bộ Tài chính chú trọng thực hiện với khoảng 220 văn bản pháp luật được trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền, bao gồm: Luật Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Quản lý nợ công (sửa đổi); 63 nghị định của Chính phủ, 11 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 11 đề án khác; 131 thông tư...; tập trung vào các cơ chế, chính sách, các giải pháp tài chính nhằm tăng cường quản lý thu, chi NSNN chặt chẽ, hiệu quả, tăng cường quản lý sử dụng tài sản công.
Công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) tiếp tục được đẩy mạnh, Bộ Tài chính đã ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ với 47 nhóm nhiệm vụ, 87 giải pháp và 175 sản phẩm đầu ra; chương trình hành động triển khai thực hiện Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6/6/2017 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp; triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến 946 thủ tục. Đã rà soát 325 TTHC; đơn giản hóa 38 TTHC và bãi bỏ 4 TTHC không còn phù hợp. Đẩy mạnh cải cách hiện đại hóa ứng dụng CNTT trong quản lý thuế, hải quan, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp góp phần nâng thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam từ 82/190 nền kinh tế lên thứ hạng 68/190 nền kinh tế (tăng 14 bậc) và năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ thứ hạng 60/137 quốc gia lên thứ hạng 55/137 quốc gia (tăng 5 bậc), chỉ số nộp thuế tăng 81 bậc...
Ba là, triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính và quản lý nợ công
Năm 2017 ghi nhận thị trường chứng khoán đã có bước phát triển tốt, quy mô vốn hóa đạt khoảng 70% GDP, tăng 80,5% so cuối năm 2016.
Thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh, vững chắc, đáp ứng các cam kết hội nhập quốc tế, với tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng 21,2%; tổng giá trị tài sản tăng 23,4%; chi trả quyền lợi bảo hiểm tăng gần 15%.
Về CPH và thoái vốn DNNN, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành các văn bản về cổ phẩn hóa (CPH), thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo hướng quản lý chặt chẽ việc xác định giá trị doanh nghiệp, áp dụng nguyên tắc thị trường trong CPH, thoái vốn. Tính đến ngày 20/12/2017, có 47 doanh nghiệp được phê duyệt phương án cổ phần hóa, tổng giá trị gần 336 nghìn tỷ đồng; thu về từ đấu giá cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp khoảng 132 nghìn tỷ đồng, trong đó thoái vốn nhà nước tại SABECO thu về gần 110 nghìn tỷ đồng.
Triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững; Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về chương trình hành động triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị; trình Quốc hội ban hành Luật quản lý nợ công (sửa đổi); trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị định về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ, cho chính quyền địa phương vay lại vốn vay ngoài nước của Chính phủ; phê duyệt chương trình quản lý nợ trung hạn 2016-2018. Đồng thời, trong điều hành tăng cường quản lý, giám sát nợ Chính phủ bảo lãnh; kiểm soát chặt chẽ bội chi, các chỉ tiêu nợ công và vay nợ của NSĐP trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Thứ tư, tăng cường quản lý thị trường, giá cả, kiểm soát lạm phát.
Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành chức năng liên quan trong việc quản lý, điều hành giá cả các mặt hàng quan trọng, thiết yếu, giá dịch vụ công theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giá; giám sát chặt chẽ hoạt động đăng ký, kê khai giá của doanh nghiệp. Qua đó đã có tác động tích cực đến giá cả thị trường; chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2017 tăng 3,53%, lạm phát cơ bản bình quân tăng 1,41% so năm 2016.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách được đẩy mạnh
Toàn ngành đã thực hiện 99.204 cuộc thanh tra; kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế gần 899,8 nghìn hồ sơ; kiến nghị xử lý về tài chính gần 55,47 nghìn tỷ đồng (trong đó: kiến nghị thu nộp ngân sách 16,8 nghìn tỷ, đã thực hiện thu là 14,64 nghìn tỷ, giảm khấu trừ 1,6 nghìn tỷ), giảm trừ dự toán kinh phí, giảm trừ cấp phát kinh phí 72 tỷ đồng; giảm trừ thanh quyết toán, không thanh toán kinh phí 92,8 tỷ đồng; xử lý tài chính khác 1,4 nghìn tỷ đồng; giảm lỗ trên 33 nghìn tỷ đồng...
Đồng thời, Bộ Tài chính với vai trò thường trực Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia đã chỉ đạo Tổng cục Hải quan triển khai nhiều giải pháp đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; đã bắt giữ 13,8 nghìn vụ buôn lậu và gian lận thương mại; thu nộp NSNN khoảng 327 tỷ đồng; cơ quan Hải quan đã khởi tố 44 vụ, chuyển cơ quan khác khởi tố 48 vụ.
Thứ sáu, về công tác hội nhập tài chính quốc tế:
Tích cực tham gia các hoạt động hợp tác tài chính khu vực, quốc tế; thực hiện cắt giảm thuế theo lộ trình đã cam kết; chủ động phối hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng các phương án đàm phán FTA thế hệ mới; thực hiện các giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đặc biệt trong năm 2017, Bộ Tài chính đã đảm nhiệm tốt vai trò chủ nhà trong tiến trình hợp tác tài chính APEC, tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC tại Hội An, góp phần thực hiện thắng lợi năm quốc gia APEC 2017.
Phóng viên: Nhiệm vụ của ngành Tài chính trong năm 2018 được Đảng, Nhà nước giao là hết sức khó khăn, nặng nề. Để hoàn thành được mục tiêu ấy, ngành Tài chính xác định những trọng tâm điều hành của Bộ năm 2018 là gì, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Năm 2018 là năm thứ 3 thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; năm đầu tiên thực hiện kế hoạch tài chính trung hạn 2018 - 2020 nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chính phủ tiếp tục ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Nhiệm vụ của năm 2018 và các năm còn lại của kế hoạch 2016 – 2020 của ngành tài chính rất nặng nề.
Với tinh thần phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của năm 2018, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương, phấn đấu thu NSNN cả năm vượt khoảng 3% dự toán, giữ bội chi NSNN ở mức không quá 3,7% GDP, tăng cường kỷ - luật kỷ cương tài chính, quản lý nợ công an toàn, bền vững. Để đạt được các mục tiêu này, các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện một số nội dung:
Thứ nhất, về thu NSNN, các Bộ, ngành, địa phương quyết liệt thực hiện các giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng làm nền tảng tăng thu nội địa. Đối với các thành phố lớn đã được giao cơ chế tài chính đặc thù, đề nghị triển khai nghiêm túc để nhanh chóng phát triển các địa bàn này thành đầu tàu kinh tế của cả nước. Tăng cường quản lý thu, hoàn thiện chính sách thu theo hướng mở rộng cơ sở thu, hạn chế tối đa các chính sách miễn giảm, giãn thuế, tạo chuyển biến rõ nét trong chống thất thu thông qua triển khai hoá đơn điện tử. Xử lý và ngăn chặn buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, quản lý chặt chẽ việc xác định giá tính thuế, phát hiện, ngăn chặn các hành vi chuyển giá, trốn lậu thuế, tăng cường thu từ khu vực kinh tế phi chính thức, quyết tâm hoàn thành vượt dự toán thu NSNN 2018. Đẩy mạnh công tác truyền thông để tạo sự đồng thuận trong xã hội về việc hoàn thiện chính sách thu, cơ cấu lại thu NSNN, đảm bảo hiệu quả bền vững theo các mục tiêu đề ra.
Thứ hai, về chi NSNN, khẩn trương phân bổ ngay và hết dự toán 2018 được giao từ đầu năm theo đúng thứ tự ưu tiên, đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý NSNN. Tiết kiệm các khoản chi thường xuyên gắn với việc thực hiện nghiêm chủ trương tinh giản biên chế, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả theo Nghị quyết 18 của Trung ương. Theo các văn bản pháp luật về cơ chế giao tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công trên cơ sở dự toán NSNN được giao, các Bộ, ngành trung ương tự cân đối bố trí nguồn tăng lương 2018 theo Nghị quyết của Quốc hội. Thực hiện nghiêm kỷ luật kỷ cương ngân sách, chủ động điều hành NSNN chặt chẽ. Trường hợp thu NSĐP khó khăn phải chủ động sắp xếp lại các khoản chi, sử dụng nguồn dự phòng, dự trữ tài chính, các nguồn tài chính khác để đảm bảo cân đối ngân sách trong phạm vi dự toán Quốc hội đã quyết định. Khẩn trương tổ chức lại, đổi mới cơ chế quản lý các quỹ ngoài ngân sách.
Thứ ba, về cân đối ngân sách và vay nợ công, đề nghị thực hiện chi tiêu trong khả năng cân đối của NSNN và dự toán được giao, các địa phương chỉ vay trong phạm vi dự toán, phù hợp khả năng trả nợ trong giới hạn quy định. Tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả vốn vay, tạo chuyển biến căn bản trong quản lý và sử dụng nợcông.
Phóng viên: Đã hơn một năm qua kể từ thời điểm Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Bộ Tài chính đã triển khai thực hiện Nghị quyết này như thế nào, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Bám sát nội dung Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tham mưu, trình Chính phủ ban hành nghị quyết số 51-NQ/CP ngày 19/6/2017 ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07, với gần 150 nhiệm vụ và giao chi tiết cho các bộ, ngành, địa phương để tổ chức thực hiện.
Đối với các nhiệm vụ được Chính phủ giao chủ trì, Bộ Tài chính đã tập trung chỉ đạo:
Một là, khẩn trương xây dựng khung khổ pháp lý, chính sách, cơ chế về tài chính - ngân sách bám sát các chủ trương, nhiệm vụ chủ yếu tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 51-NQ/CP về chương trình hành động nêu trên; gồm:
Hệ thống các văn bản hướng dẫn Luật NSNN năm 2015, trong đó có những nội dung quản lý ngân sách tiên tiến như kế hoạch tài chính trung hạn; quản lý bội chi, vay nợ của các địa phương; tăng cường phân cấp đi đôi với yêu cầu giải trình, minh bạch ngân sách; siết chặt việc ứng trước, chuyển nguồn, bổ sung dự toán; xây dựng cơ chế đặc thù đối với một số địa phương trọng điểm;... vừa tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý NSNN, đồng thời tạo động lực phát triển cho các địa phương trọng điểm, thực hiện các vai trò đầu tàu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước...;
Trình Quốc hội ban hành Luật quản lý nợ công (sửa đổi), xác định rõ phạm vi nợ công; thống nhất đầu mối quản lý về nợ công; thu hẹp đối tượng và siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh Chính phủ, đối tượng vay lại vốn vay nước ngoài; tăng cường quản lý sử dụng vốn vay lại và vốn vay có bảo lãnh Chính phủ; tăng cường các công cụ và biện pháp quản lý rủi ro, về báo cáo, công khai thông tin, kế toán kiểm toán về nợ công...; xây dựng và triển khai các công cụ quản lý nợ chủ động thực hiện mục tiêu tổ chức huy động vốn với chi phí thấp gắn liền với mức độ rủi ro hợp lý, đảm bảo khả năng trả nợ, đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước; siết chặt quản lý bảo lãnh Chính phủ; nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn vay của NSĐP trên cơ sở tăng cường trách nhiệm, tính chủ động, minh bạch hoạt động vay nợ của địa phương.
Dự thảo Luật sửa đổi 6 Luật thuế (thuế TNDN, thuế TNCN, thuế TTĐB, thuế GTGT, thuế tài nguyên, Luật thuế xuất khẩu/thuế nhập khẩu) theo hướng khắc phục các bất cập hiện nay; giảm nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp; tăng thuế suất thuế GTGT; thu hẹp diện ưu đãi...; góp phần tạo dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh, đảm bảo tính nhất quán, rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính, giảm chi phí thuế; cơ cấu lại thu NSNN;...
Trong quản lý, điều hành, đã thực hiện triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; giảm dự toán chi thường xuyên NSNN năm 2017, 2018 cho các đơn vị sự nghiệp công lập các lĩnh vực giáo dục, y tế theo lộ trình tăng học phí và tính chi phí lương vào giá dịch vụ y tế; tăng tỷ trọng chi đầu tư.... Việc tổ chức điều hành bám sát dự toán, hạn chế bổ sung ngoài dự toán; quản lý chặt chẽ nguồn dự phòng ngân sách, ưu tiên tập trung cho các nhiệm vụ khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, các nhiệm vụ cấp bách của quốc phòng, an ninh,...
Đối với nợ công, đã đẩy mạnh cơ cấu lại nợ công, không thực hiện cấp mới bảo lãnh của Chính phủ cho các dự án vay vốn, không phát hành TPCP kỳ hạn dưới 5 năm... Toàn bộ khối lượng TPCP phát hành năm 2017 thực hiện qua kênh đấu thầu trên thị trường, đảm bảo tính công khai, minh bạch;
Năm 2017, lần đầu tiên Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp với bộ, ngành, địa phương triển khai xây dựng kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm 2018-2020, làm cơ sở để thảo luận, xác định dự toán ngân sách nhà nước năm 2018, tiếp tục thực hiện mục tiêu cơ cấu lại NSNN, tăng tỷ trọng thu nội địa, tăng tỷ trọng chi đầu tư, đảm bảo kiểm soát chi tiêu trong khả năng nguồn lực trung hạn, vay nợ phù hợp với khả năng trả nợ của nền kinh tế, kiểm soát bội chi, nợ công theo các mục tiêu đề ra.
Phóng viên: Bộ trưởng có thể cho biết một số kết quả trong công tác tái cơ cấu thu và chi ngân sách? Bộ trưởng kỳ vọng gì về kết quả của quá trình tái cơ cấu này?
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Thực hiện các giải pháp trên, bước đầu đã cơ cấu lại NSNN với các kết quả tích cực: Thu cân đối NSNN trong 02 năm 2016-2017 đạt khoảng 24,6%GDP; tỷ trọng thu nội địa bình quân đạt trên 80% (so với tỷ trọng thu nội địa bình quân giai đoạn 2011-2015 là 68%). Tổng chi ngân sách bám sát dự toán; trong đó, chi ĐTPT trong 02 năm 2016- 2017 bình quân chiếm 26-27% tổng chi NSNN (giai đoạn 2011-2015, dự toán chi ĐTPT chiếm 18,2%/tổng chi NSNN; thực hiện là 25%/tổng chi NSNN); tỷ trọng chi thường xuyên trong dự toán 02 năm 2016-2017 là 64-65% (giai đoạn 2011- 2015 là 67,8%). Về cân đối NSNN, tỷ lệ bội chi NSNN tính theo GDP thực tế bình quân 02 năm 2016- 2017 là 4,27% (tính theo Luật NSNN năm 2015 và GDP thực tế), trong đó bội chi năm 2017 khoảng 3,48%GDP thực hiện. Về nợ công, thông qua các biện pháp tái cơ cấu, đã kéo dài kỳ hạn nợ (kỳ hạn phát hành TPCP bình quân năm 2017 ước là 13,5 năm, so với kỳ hạn phát hành bình quân năm 2016 là 8,7 năm), nâng kỳ hạn danh mục TPCP đến cuối năm 2017 là 6,7 năm (so với 5,98 năm thời điểm cuối năm 2016); lãi suất giảm; đảo ngược cơ cấu nợ trong nước và ngoài nước, từ cơ cấu nợ trong nước/ngoài nước là 39%/61% năm 2011, chuyển thành 60%/40% năm 2016; đa dạng hóa các nhà đầu tư (tỷ trọng nắm giữ trái phiếu của NHTM từ khoảng 78% cuối năm 2016 xuống còn 54% ). Ước đến 31/12/2017, dư nợ công khoảng 61,3%GDP, trong đó: nợ chính phủ khoảng 51,6%GDP, nợ được Bảo lãnh Chính phủ khoảng 9,1%GDP trong giới hạn quy định.
Việc tái cơ cấu theo các mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 07-NQ/TW là yêu cầu cấp thiết và đã được quán triệt sâu rộng, đồng thời nhận được sự ủng hộ của các cấp, các ngành. Những kết quả đạt được bước đầu cũng rất tích cực. Trong năm 2017, Hội nghị Trung ương 6, Khóa XIV tiếp tục ban hành các Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Chúng tôi hy vọng rằng, việc triển khai các Nghị quyết này và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 51-NQ/CP ngày 19/6/2017 của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, sẽ là nền tảng để đạt được các mục tiêu cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công đã đề ra.
Tuy nhiên, quá trình cơ cấu lại NSNN cũng còn nhiều thách thức, trong đó:
Về cơ cấu lại thu NSNN: mặc dù có bước phát triển mới song còn khó khăn do kinh tế thế giới chưa thực sự ổn định; trong nước, việc cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng còn chậm, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh chưa đáp ứng được yêu cầu; còn nhiều rủi ro chưa lường trước được của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sáp nhập và cổ phần hóa DNNN...
Về cơ cấu lại chi NSNN: phụ thuộc lớn vào khả năng điều chỉnh lại các chính sách chi cho con người, chi các lĩnh vực sự nghiệp; việc triển khai các nghị quyết số 18, số 19 nêu trên về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Phóng viên: Xin cảm ơn Bộ trưởng!