Cục trưởng Cục Quản lý công sản La Văn Thịnh và Phó Chánh Văn phòng Bộ Tài chính Ngô Chí Tùng
đồng chủ trì buổi họp
Nguyên tắc sử dụng tài sản công thanh toán Dự án BT
Tại buổi họp báo, ông La Văn Thịnh đã giới thiệu về một số nội dung mới được quy định tại Nghị định 69/2019/NĐ-CP (Nghị định 69). Trong đó, điểm đáng chú ý là, so với quy định hiện hành về cơ chế thanh toán cho nhà đầu tư khi thực hiện Dự án BT, ngoài cơ chế thanh toán bằng quỹ đất được kế thừa từ Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg, Nghị định 69 quy định bổ sung thêm việc sử dụng một số loại tài sản công khác theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT.
Cụ thể các tài sản công được sử dụng để thanh toán bao gồm: Quỹ đất; Đất, nhà và tài sản khác gắn liền với đất (trụ sở làm việc) của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về hội (cơ quan, tổ chức, đơn vị); Tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Các loại tài sản công khác theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Toàn cảnh buổi họp
Cũng theo ông Thịnh có 6 nguyên tắc sử dụng tài sản công thanh toán Dự án BT gồm:
Thứ nhất, việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện Dự án BT phải đảm bảo: Tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, đất đai, ngân sách nhà nước, đầu tư, xây dựng; Việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện Dự án BT theo hình thức đấu thầu rộng rãi theo quy định của pháp luật về đấu thầu; Chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện Dự án BT được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, giá trị Dự án BT tương đương với giá trị tài sản công thanh toán. Theo đó: Giá trị tài sản công được xác định theo giá thị trường theo quy định của pháp luật tại thời điểm thanh toán; Giá trị Dự án BT được xác định theo kết quả đấu thầu.
Thứ ba, việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT phải được tổng hợp, phản ánh vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước;
Thứ tư, thời điểm thanh toán Dự án BT đối với trường hợp thanh toán bằng quỹ đất hoặc trụ sở làm việc là thời Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất cho Nhà đầu tư; Thời điểm thanh toán Dự án BT đối với trường hợp thanh toán bằng tài sản kết cấu hạ tầng và các loại tài sản công khác là thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định giao tài sản cho Nhà đầu tư.
Thứ năm, khoản lãi vay trong phương án tài chính của Hợp đồng BT đối với phần giá trị công trình Dự án BT hoàn thành theo tiến độ chấm dứt kể từ thời điểmcơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất, giao tài sản cho Nhà đầu tư.
Thứ sáu, việc giao tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện Dự án BT được thực hiện sau khi Dự án BT hoàn thành hoặc thực hiện đồng thời tương ứng với khối lượng xây dựng công trình Dự án BT hoàn thành theo tiến độ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định theo quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng.
Phóng viên đặt câu hỏi tại buổi họp
Nghị định 69 sẽ khắc phục được những bất cập tại các Dự án BT
Đánh giá về việc sử dụng quỹ đất thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT trong thời gian qua, ông Thịnh cho biết: Về cơ bản đã phát huy được hiệu quả thông qua việc huy động các nguồn lực của khu vực tư nhân và việc cung cấp các dịch vụ công, giảm áp lực lên nguồn ngân sách nhà nước. Tiếp tục kế thừa và phát huy hiệu quả của cơ chế thanh toán Dự án BT bằng quỹ đất, tại Nghị định 69 quy định 02 nhóm quỹ đất được sử dụng để thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện dự án BT, bao gồm: Đất chưa giải phóng mặt bằng và đất đã giải phóng mặt bằng. Nhà nước thực hiện giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê theo quy định của pháp luật đất đai để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện Dự án BT.
Đối với việc sử dụng trụ sở làm việc để thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT, ông Thịnh cho biết: Để đảm bảo tính thống nhất trong quản lý, sử dụng tài sản công, đặc biệt đối với các loại tài sản công có giá trị lớn như trụ sở làm việc; đồng thời, phù hợp với Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Nghị định 69 quy định việc sử dụng trụ sở làm việc để thanh toán Dự án BT thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và được thực hiện sau khi có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Việc thanh toán Dự án BT bằng trụ sở làm việc thực hiện tương tự như đối với trường hợp thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT bằng quỹ đất.
Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc NĐ 69 có khắc phục được những bất cập, tồn tại tại các Dự án BT trong thời gia qua hay không? Và có ngăn chặn được tình trạng thất thoát tài sản công hay không? Trao đổi về vấn đề này, ông Thịnh khẳng định, chắc chắn sẽ khắc phục được những bất cập này, nói cách khác với các quy định chặt chẽ tại NĐ 69 thì các bất cập không có cơ hội phát sinh. Mặt khác để tránh việc nhà đầu tư cố tình lập dự án BT để lấy đất, trụ sở làm việc, ông Thịnh cho biết, trước khi muốn thực hiện dự án BT để được thanh toán bằng quỹ đất, nhà đầu tư phải đảm bảo dự án được lập theo mô hình nào, và phải thông qua đấu thầu rộng rãi, chưa kể trong một số trường hợp muốn sử dụng đất hoặc tài sản công để thanh toán, dự án đó phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Nghị định 69 có hiệu lực từ ngày 1/10/2019 và trực tiếp thực hiện ngay, không cần thông tư hướng dẫn.