Theo số liệu sơ bộ của Tổng Cục Thống kê, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý II/2020 giảm 1,66% so với quý trước; giảm 1,69% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 0,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất nhóm sản phẩm dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm do ảnh hưởng dịch Covid-19, nhu cầu tiêu thụ năng lượng thế giới thấp cùng với hoạt động xuất khẩu dầu thô từ Việt Nam ra nước ngoài bị ngưng trệ khi thực hiện giãn cách xã hội và đóng cửa biên giới, giá sản phẩm dầu thô và khí đốt tự nhiên khai thác trong nước biến động cùng xu hướng giá dầu thế giới. So với quý trước, giá nhóm sản phẩm than cốc và dầu mỏ tinh chế giảm 47,92% do giá nguyên liệu đầu vào sản xuất giảm; giá nhóm sản phẩm trang phục giảm 0,82% do nhu cầu tiêu dùng giảm trong thời gian phòng dịch Covid-19, lượng hàng tồn kho nhiều, nhà sản xuất giảm giá bán.
Chỉ số giá sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm do giá than nhập khẩu và giá xăng dầu giảm. Giá điện sản xuất của các nhà máy nhiệt điện giảm; giá điện sản xuất của các nhà máy điện khí giảm do giá xăng dầu giảm.
- Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý II/2020 giảm 1,96% so với quý trước; giảm 0,87% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 tăng 0,07% so với cùng kỳ năm trước. Do ảnh hưởng kéo dài của dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh doanh vận tải, dịch vụ du lịch, lưu trú; dịch vụ hành chính và hỗ trợ.
Chỉ số giá vận tải kho bãi quý II năm 2020 giảm 5,86% so với quý trước; giảm 7,74% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 4,87% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, so với quý trước, giá vận tải đường sắt giảm 5,97%; giá vận tải đường bộ và xe buýt giảm 0,75%; giá vận tải đường hàng không giảm 32,7% do giá xăng dầu trong nước giảm theo giá nhiên liệu thế giới và nhu cầu đi lại của người dân giảm.
Chỉ số giá dịch vụ lưu trú quý II/2020 giảm 3,82% so với quý trước; giảm 5,52% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 3,35% so với cùng kỳ năm 2019, do ảnh hưởng dịch Covid-19, giá thuê phòng các khách sạn giảm, một số khách sạn và nhà nghỉ đóng cửa ngừng hoạt động do không có khách lưu trú.
Chỉ số giá dịch vụ ăn uống quý II/2020 giảm 0,52% so với quý trước; tăng 0,72% so với cùng kỳ năm 2019; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 tăng 1,44% so với cùng kỳ năm 2019, do ảnh hưởng dịch Covid-19 và dịch tả lợn châu Phi nên giá các loại thực phẩm, đặc biệt giá thịt lợn tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá dịch vụ hành chính và hỗ trợ quý II/2020 giảm 3,45% so với quý trước; giảm 3,36% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 1,34% so với cùng kỳ năm 2019. Chỉ số giá dịch vụ hành chính và hỗ trợ giảm chủ yếu đối với hoạt động của các đại lý du lịch, kinh doanh tour du lịch và các hoạt động liên quan đến quảng bá và tổ chức tour du lịch do ảnh hưởng từ dịch Covid-19.
- Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2020 tăng 0,82% so với quý trước; tăng 8,31% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 tăng 7,13% so với cùng kỳ năm trước.
So với quý trước, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng chủ yếu do chỉ số giá nhóm nông nghiệp tăng 2,26% trong khi nhóm sản phẩm lâm nghiệp và thủy sản đều giảm tương ứng 0,29% và 3,33%. Chỉ số giá sản xuất nhóm nông nghiệp tăng tập trung ở nhóm sản phẩm chăn nuôi lợn, sản phẩm thóc, quả chứa dầu, ngô và cây lương thực có hạt.
Giá sản phẩm chăn nuôi lợn quý II năm 2020 tăng 14,55% so với quý trước, do dịch tả lợn châu Phi tái xuất hiện ở một số tỉnh như: Bắc Kạn, Phú Thọ, Đắk Nông, Quảng Ninh… gây tâm lý hoang mang người chăn nuôi, đồng thời giá lợn giống và chi phí chăn nuôi lợn tăng cao, tốc độ tái đàn chậm làm khan hiếm lượng cung sản phẩm lợn trên thị trường.
Giá sản phẩm thóc quý II/2020 tăng 2,72% so với quý trước, do nhu cầu tiêu dùng và tích trữ lương thực tăng trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội, nhu cầu nhập khẩu gạo các nước tăng, trong khi các nước xuất khẩu gạo hạn chế bán vì lo ngại dịch Covid-19 có thể kéo dài.
Giá sản phẩm ngô hạt khô tăng chủ yếu do hết vụ thu hoạch và nguồn cung giảm; Giá sản phẩm quả chứa dầu tăng do trái vụ sản lượng quả dừa khô giảm, trong khi nhu cầu mua quả dừa khô tăng phục vụ sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và chế biến các sản phẩm như: thạch dừa, nước cốt dừa trong dịp nắng nóng kéo dài.
Chỉ số giá xuất khẩu giảm nhiều hơn chỉ số giá nhập khẩu
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý II/2020 giảm 1,74% so với quý trước; giảm 1,91% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 1,22% so với cùng kỳ năm trước.
Quý II/2020 so với quý trước, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa giảm tại 18/40 nhóm hàng giảm trong đó giảm nhiều nhất là các nhóm: Dầu thô giảm 34,72%; xăng dầu các loại giảm 25,7%; quặng và khoáng sản giảm 7,93%; sắt thép giảm 5,41% và thủy sản giảm 4,94%.
Trong quý II năm 2020, giá dầu thô xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh theo xu hướng giá dầu thô thế giới, do ảnh hưởng dịch Covid-19 các nước thực hiện giãn cách xã hội, nhu cầu đi lại giảm, hoạt động sản xuất giảm khiến cầu tiêu thụ dầu và các sản phẩm từ dầu trên toàn thế giới giảm;
Giá thủy sản xuất khẩu giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hầu hết các thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của Việt Nam như: Trung Quốc, Mỹ và các nước châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều đơn hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trường Trung Đông, châu Á hay Nam Mỹ bị ách tắc và hủy, do các nước nhập khẩu đóng cửa biên giới... khiến các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm thủy sản chuyển hướng kinh doanh chú trọng phục vụ thị trường trong nước;
Giá cà phê xuất khẩu giảm, do nguồn cung cà phê thế giới tăng và ảnh hưởng dịch Covid-19 các nước thực hiện giãn cách xã hội, nhu cầu tiêu thụ giảm kéo giá cà phê Robusta và Arabica thế giới giảm.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý II/2020 giảm 0,74% so với quý trước; giảm 0,98% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 0,45% so với cùng kỳ năm trước. Trong số 42 nhóm hàng nhập khẩu chính có 25 nhóm hàng giảm giá so với quý trước, trong đó giảm nhiều nhất là các nhóm: Khí đốt hóa lỏng giảm 28,67%; xăng dầu các loại giảm 10,72%.
Trong quý II năm 2020, giá khí đốt hóa lỏng giảm 28,67% so với quý trước; giảm 28,48% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 12,8% so với cùng kỳ năm trước do các tháng trong quý II/2020 thời tiết ở các nước ôn hòa nhu cầu về khí đốt không cao. Hai mặt hàng giá giảm sâu trong nhóm: Khí Propan giảm 30,15% và khí Butan giảm 27,11% so với quý trước;
Giá xăng dầu các loại quý II/2020 giảm 10,72% so với quý trước; giảm 12,21% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của thị trường xăng dầu thế giới.
Nhiều hàng hóa có tỷ giá thương mại giảm
Tỷ giá thương mại hàng hóa phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa giá hàng xuất khẩu với giá hàng nhập khẩu của quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Tỷ giá thương mại quý II/2020 giảm 1,0% so với quý trước; giảm 0,94% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2020 giảm 0,78% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ giá thương mại giảm phản ánh giá hàng hóa nhập khẩu có lợi thế hơn so với giá hàng hóa xuất khẩu.
Chỉ số giá xuất khẩu, nhập khẩu và tỷ giá thương mại hàng hóa 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước giai đoạn 2016-2020
4 nhóm hàng hóa có tỷ giá thương mại bình quân 6 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước là Xăng dầu các loại, sắt thép, thủy sản và nhóm rau quả với các mức giảm tương ứng là: 13,77%; 4,15%; 3,41% và 2,96% và có 4 nhóm có tỷ giá thương mại tăng, gồm: Hóa chất, cao su, gỗ và sản phẩm từ gỗ và nhóm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng lần lượt là 6,87%; 5,12%; 1,67% và 1,21%.