Theo Chính phủ, chính sách thuế SDĐNN đang được miễn đến hết ngày 31/12/2020 (trừ diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác đang quản lý nhưng không trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp thì phải nộp 100% thuế SDĐNN).
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng
Trong 20 năm thực hiện chính sách miễn, giảm thuế SDĐNN cho thấy, tổng số thuế SDĐNN miễn, giảm giai đoạn 2003 - 2010 trung bình khoảng 3.268,5 tỷ đồng/năm; giai đoạn từ 2011 - 2016 trung bình khoảng 6.308,3 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2017 - 2018 và dự kiến đến hết năm 2020 khoảng 7.438,5 tỷ đồng/năm. Chính sách miễn, giảm thuế SDĐNN là giải pháp có tác động lớn, quan trọng góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong từng thời kỳ; góp phần hỗ trợ trực tiếp người nông dân, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn; góp phần khuyến khích tập trung đất đai để sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nông dân, góp phần tạo thêm việc làm cho khu vực nông thôn, khuyến khích người nông dân gắn bó hơn với đất, yên tâm đầu tư sản xuất nông nghiệp; nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì vậy, Chính phủ cho rằng việc tiếp tục thực hiện chính sách miễn thuế SDĐNN như quy định hiện hành cho giai đoạn 2021 - 2025, ban hành dưới hình thức Nghị quyết của Quốc hội, là cần thiết và phù hợp nhằm tiếp tục phát huy những hiệu quả trên. Điều này cũng phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Rà soát các chính sách, đối tượng được miễn, giảm thuế SDĐNN
Trong quá trình xây dựng dự án Nghị quyết, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị rà soát lại các chính sách, các đối tượng để thực hiện mục tiêu miễn, giảm thuế SDĐNN nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tránh sử dụng đất lãng phí, để đất đai hoang hóa.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, mục tiêu quan trọng nhất của chính sách miễn thuế SDĐNN trong những năm qua là nhằm thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước; đồng thời góp phần hỗ trợ trực tiếp đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; góp phần khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp và góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp. Việc miễn thuế SDĐNN thời gian qua đã được triển khai thực hiện tốt, không có vướng mắc.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thì các trường hợp sau được nhà nước giao đất và thuộc đối tượng phải nộp thuế SDĐNN theo quy định của Luật thuế SDĐNN:
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối trên diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức: được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Người sử dụng đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng: được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
Cộng đồng dân cư SDĐNN: được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Tổ chức kinh tế đã được Nhà nước giao đất nông nghiệp có thu tiền sử dụng đất trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối: được tiếp tục sử dụng đất đến hết thời hạn được giao đất có thu tiền sử dụng đất, sau đó phải chuyển sang thuê đất (khi chuyển sang thuê đất sẽ không phải nộp thuế SDĐNN).
Các trường hợp khác ngoài 4 trường hợp đã nêu trên được Nhà nước cho thuê đất và không thuộc đối tượng phải nộp thuế SDĐNN. Trường hợp được nhà nước giao đất không thu tiền thuê đất trước Luật Đất đai năm 2013 và thuộc đối tượng được nhà nước cho thuê đất theo Luật Đất đai năm 2013 thì phải chuyển sang thuê đất. Tuy nhiên, trên thực tế một số trường hợp vẫn chưa được chuyển sang thuê đất do nhiều nguyên nhân, theo đó trường hợp chưa chuyển sang thuê đất thì phải nộp thuế SDĐNN theo quy định tại Luật Thuế SDĐNN.
Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và quy định của pháp luật thuế SDĐNN thì chỉ có các trường hợp được nhà nước giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất, chủ yếu là hộ nông dân, và trường hợp đang SDĐNN được giao trong thời hạn đã nộp tiền sử dụng đất là phải nộp thuế SDĐNN và được miễn thuế đến hết 2020 (trừ diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức nhưng không trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp thì phải nộp 100% thuế SDĐNN).
Sẽ nghiên cứu, đánh giá kỹ việc thu thuế với đất để hoang hoá
Thực tế quá trình SDĐNN cho thấy có tình trạng đất nông nghiệp được giao cho hộ nông dân nhưng không được canh tác hoặc canh tác không hiệu quả, gây nên tình trạng hoang hóa, lãng phí đất. Tuy nhiên pháp luật về đất đai cũng chưa có khung pháp lý quy định thế nào là đất hoang hóa (ví dụ đất không sử dụng 1 vụ, 2 vụ, 3 vụ hay thời gian bao lâu được gọi là đất hoang hóa; trường hợp ngừng 1 vụ để cải tạo đất thì có được coi là đất hoang hóa không,…). Hơn nữa tại Luật Đất đai 2013 đã quy định việc xác định một số loại đất nông nghiệp không được sử dụng trong khoảng thời gian nhất định là những hành vi vi phạm pháp luật và phải thực hiện thu hồi đất.
Ngoài ra, việc để đất đai hoang hóa có nhiều nguyên nhân như thiên tai (hạn hán, thiếu nước), dịch bệnh, không có đầu ra, hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao, thiếu hụt nguồn lao động, các rào cản trong quy định của pháp luật về đất đai nhằm tích tụ, tập trung ruộng đất,...; không phải do việc miễn thuế SDĐNN.
Từ những phân tích trên, Chính phủ cho rằng các đối tượng được miễn thuế SDĐNN như hiện hành là phù hợp. Chính phủ sẽ nghiên cứu, đánh giá kỹ việc thu thuế đối với đất để hoang hóa khi nghiên cứu đề xuất, hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai nói chung và chính sách thuế liên quan đến đất đai nói riêng.
Ngoài ra, việc tiếp tục miễn thuế SDĐNN đến hết năm 2025 sẽ không làm giảm thu NSNN do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế. Với số thuế SDĐNN được miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm sẽ tiếp tục là hình thức hỗ trợ trực tiếp cho tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp, là nguồn tài chính quan trọng đầu tư trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông thôn để góp phần đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa; qua đó góp phần giúp người nông dân cải thiện cuộc sống, góp phần động viên người nông dân yên tâm sản xuất, gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững.
Thẩm tra nội dung này, Uỷ ban Tài chính ngân sách của Quốc hội nhất trí với tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết tiếp tục ban hành chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho giai đoạn 2021-2025, đặc biệt trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19 và tình hình bất lợi về thiên tai, biến đổi khí hậu hiện nay.