Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Thông tư 333 quy định về xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất thuê, cụ thể:
Đối với trường hợp đấu giá thuê đất trả tiền hàng năm: Giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm là đơn giá thuê đất trả tiền hàng năm do cơ quan tài chính xác định trên cơ sở giá đất tại Bảng giá đất, hệ số điều chỉnh giá đất, mức tỉ lệ phần trăm (%) tính đơn giá thuê đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.
Hệ số điều chỉnh giá đất, mức tỷ lệ phần trăm (%) để xác định giá khởi điểm theo quy định là hệ số điều chỉnh giá đất, mức tỷ lệ phần trăm (%) do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành để xác định đơn giá thuê đất trong trường hợp cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá. Trường hợp thửa đất hoặc khu đất đấu giá thuộc đô thị, trung tâm thương mại, dịch vụ, đầu mối giao thông, khu dân cư tập trung có khả năng sinh lợi đặc biệt, có lợi thế trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, thương mại và dịch vụ thì căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, Sở Tài chính báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định điều chỉnh tăng hệ số điều chỉnh giá đất, mức tỷ lệ phần trăm (%) để xác định giá khởi điểm.
Thông tư 333 cũng bổ sung quy định về xác định tiền thuê đất:
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp hợp pháp để thực hiện dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mà phải chuyển mục đích sử dụng đất sau khi nhận chuyển nhượng và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính về nộp tiền thuê đất thì việc xử lý tiền nhận chuyển nhượng được thực hiện theo quy định.
Trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trả tiền hàng năm nhưng đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính cho một số năm do được trừ số tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng đã ứng trước, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào tiền thuê đất theo quy định của pháp luật, khi chuyển sang thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê còn lại thì số tiền thuê đất phải nộp được xác định như sau: Đơn giá thuê đất trả tiền một lần của thời gian thuê đất còn lại (sau khi trừ thời gian đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính nhưng chưa được trừ) được xác định theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP tại thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển sang thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê còn lại; Số tiền thuê đất phải nộp được tính bằng diện tích phải nộp tiền thuê đất nhân (x) với đơn giá thuê đất theo quy định.
Cũng theo Thông tư 333, trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm nhưng đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính cho một số năm do được khấu trừ tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng đã ứng trước hoặc tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào tiền thuê đất theo quy định của pháp luật, khi chuyển nhượng dự án hoặc chuyển nhượng tài sản thuộc sở hữu của mình trên đất gắn liền với đất thuê theo quy định của pháp luật thì người nhận chuyển nhượng được kế thừa và tiếp tục được trừ tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng hoặc tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn lại tương ứng với thời gian đã thực hiện quy đổi chưa được trừ hết vào số tiền thuê đất phải nộp.
Cơ quan tài chính thực hiện ghi thu, ghi chi số tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng mà người được Nhà nước cho thuê đất đã tự nguyện ứng trước được trừ vào tiền thuê đất, thuê mặt nước phải nộp theo quy định tại pháp luật về ngân sách nhà nước./.
TT